Công ty TNHH sản xuất phân bón Phượng Hoàng

Vì sao bón phân đúng cách nhưng vẫn không hiệu quả?

Vì sao bón phân đúng cách nhưng vẫn không hiệu quả?

Mặc dù vụ mùa vừa qua, ghi nhận đa số người nông dân trồng lúa đều được mùa được giá nhưng cũng không ít trường hợp đầu tư phân bón rất nhiều nhưng sản lượng đều không như kì vọng mặc dù đã bón phân đúng cách, đúng liều lượng? Vậy nguyên nhân là do đâu? Dạo quanh một vòng thị trường miền Tây, điều dễ nhận thấy là bà con mình rất ưa chuộng hàng giá rẻ, càng rẻ càng tốt, thương hiệu nào cũng được. Xuất phát từ thực tế rằng, lúa giá trị kinh tế không cao nên bà con cố gắng giảm chi phí trồng trọt càng nhiều càng tốt, trong đó có chi phí cho phân bón. Suy nghĩ này là tốt thế nhưng, khi mua được hàng giá rẻ, bón vào cho ruộng đúng như liều lượng, đúng như thời điểm canh tác hàng năm nhưng cây lúa vẫn không có sự thay đổi rõ rệt, vậy là phải bón thêm vài kilogam thì mới thấy tốt lên. Vì sao vậy? Vì nông dân mua trúng phân bón kém chất lượng, dẫn đến chi phí đội lên. Bởi đơn giản là không có phân bón nào rẻ vô lý lại tốt cả. Bài toán kinh tế tham khảo:   Bao 50kg (đồng) Quy đổi dinh dưỡng Lượng bón /ha Thành tiền NPK 16.16.8 (100%) 550.000 16/16/8 300kg 3.300.000 NPK 16.16.8 (80%) 500.000 13/13/6.6 360kg 3.600.000    ( Đây là ví dụ về giá, không phải những sản phẩm NPK giá 500.000/bao 50kg là phân bón kém chất lượng, chỉ mang tính chất tham khảo) Chi phí khi sử dụng phân kém chất lượng này chưa bao gồm tiền công phải bỏ ra nhiều hơn, chi phí cho thuốc BVTV chắc chắn sẽ cao hơn do lượng bón quá nhiều, đất đai dễ bị ngộ độc, chi phí cải tạo đất và hơn hết là dư lượng Clorua trong đất gây nguy hiểm cho cây, dễ dẫn đến mất năng suất. Đối với vùng cây ăn trái là dễ nhận biết nhất, khi sử dụng phân bón kém chất lượng cây sẽ nhanh bệnh và chết gây ra thiệt hại kinh tế vô cùng nghiêm trọng. Vì sao phân bón giả, phân bón kém chất lượng vẫn hoành hành? Một phần vì thị trường quá lớn, các cơ quan chức năng không đủ khả năng về nhân lực để kiểm tra thường xuyên, cũng một phần là sự tiếp tay của một bộ phận nhỏ giữa cơ quan chức năng và đại lý phân bón vì tiền mà bất chấp tất cả để tiêu thụ sản phẩm giả, kém chất lượng với công ty làm phân bón đó, kèm theo là sự hạn chế về sự hiểu biết về phân bón giữa ma trận sản phẩm giả ngày càng tinh vi trên thị trường gây thiệt hai cực kì nghiêm trọng đến người nông dân cũng như những nhà sản xuất – kinh doanh chân chính. Vậy giải quyết vấn đề như thế nào? Người nông dân nên tin dùng những sản phẩm uy tín và chất lượng, tránh sử dụng những sản phẩm bị nghi ngờ về chất lượng, giá rẻ bất thường. Tăng cường tính tương tác giữa nông dân và công ty để đảm bảo không sử dụng hàng nhái, đảm bảo sử dụng đúng cách, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững. Vậy với cả nghìn doanh nghiệp sản xuất phân bón hiện nay, nên dùng sản phẩm của những doanh nghiệp nào? – Công ty TNHH Sản xuất phân bón Phượng Hoàng. Công ty TNHH Sản xuất phân bón Phượng Hoàng là đơn vị sản xuất và kinh doanh phân bón chất lượng cao, ứng dụng công nghệ nano vào phát triển các dòng sản phẩm, mang tính đột phá trong sản xuất phân bón trong nước, với khả năng đem lại hiệu quả cao, an toàn cho cây trồng – đất đai – nguồn nước – năng suất tốt trong khi chi phí đầu tư thấp hơn hẳn so với các sản phẩm khác trên thị trường. Ví dụ tham khảo :   Giá thành (đồng/kg) Lượng bón tương đương Thành tiền Đánh giá hiệu quả Ure Phoenix 9.000 7 63.000 Sản lượng tăng 10-15% Ure Thị trường 7.500 10 72.000 NPK 16.16.8+TE Phượng Hoàng 11.500 9-9,5 103.500 Sản lượng tăng 15-20% NPK 16.16.8+TE Thị trường 11.500 10 115.000   Dẫn chứng ở khu vực An Giang, ghi nhận sản lượng lúa thu được khi sử dụng phân bón Phượng Hoàng cao hơn 15-20kg / 1 công, tương ứng 150 - 200 kg/ha so với những sản phẩm cùng loại. Điều này đã chứng minh tính hiệu quả cũng như cam kết chất lượng của công ty đối với người tiêu dùng. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn của doanh nghiệp trong thay đổi nhận thức của người tiêu dùng hiện nay do chính sách về giá cả, đánh giá tính hiệu quả của sản phẩm so với chi phí đầu tư ban đầu, song công ty vẫn cố gắng từng bước đồng hành cùng người nông dân để thấu hiểu lẫn nhau, công ty vẫn trung thành với sản phẩm uy tín chất lượng cao để đảm bảo hiệu quả cao nhất đối với người tiêu dùng khắp cả nước. Công ty TNHH Sản xuất phân bón Phượng Hoàng
Dịch bệnh Vàng lùn - Lùn xoắn lá bùng phát

Dịch bệnh Vàng lùn - Lùn xoắn lá bùng phát

            Có 33,33% trong số 30 mẫu rầy nâu bị nhiễm virus, gồm 13,33% mẫu nhiễm virus gây bệnh vàng lùn (VL) và 20% nhiễm virus gây bệnh lùn xoắn lá (LXL), đó là kết quả giám định mới nhất tại tỉnh An Giang.           Theo báo cáo của Cục Bảo vệ thực vật, năm 2017, bệnh VL-LXL hại lúa đã tái bùng phát gây hại trở lại tại các tỉnh phía Nam với diện tích nhiễm bệnh 16.360ha. Thăm đồng thường xuyên để có biện pháp phòng trừ dịch hại kịp thời           Tại An Giang, có 1.024ha bị nhiễm bệnh, trong đó có 10,2ha tại huyện Tri Tôn bị nhiễm nặng buộc phải tiêu hủy. Vụ lúa hè thu 2018, các tỉnh, thành phía Nam đã gieo sạ trên 1,5 triệu ha. Tại An Giang, đến ngày 6/6, toàn tỉnh đã xuống giống dứt điểm 230.728,46 ha đạt 101% kế hoạch. Trên toàn vùng, bệnh VL-LXL tiếp tục phát sinh gây hại trên lúa hè thu tại các tỉnh: Hậu Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An, Bạc Liêu và An Giang với diện tích nhiễm hơn 6.200ha. Tại An Giang, tính đến ngày 15/6, đã có 160ha lúa bị nhiễm bệnh, tập trung trên trà lúa xuống giống sớm.           Ông Trần Anh Thư, Giám đốc Sở NN-PTNT, Phó trưởng BCĐ phòng, chống rầy nâu, bệnh VL-XL và các dịch hại khác gây ra, cho biết, đầu tháng 6/2018, kết quả giám định Elisa 170 mẫu rầy nâu vào đèn ở 6 tỉnh: Đồng Tháp, Long An, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bạc Liêu và An Giang đã phát hiện 25/170 mẫu nhiễm virus gây bệnh VL-LXL (chiếm 17,71%). Riêng tại An Giang, kết quả giám định 30 mẫu rầy nâu có 33,33% số mẫu bị nhiễm virus (13,33% mẫu nhiễm virus gây bệnh VL, 20% nhiễm virus gây bệnh LXL).           Để chủ động phòng, chống, ngăn ngừa sự lây lan của dịch bệnh, bảo vệ an toàn vụ lúa hè thu 2018 và các vụ lúa tiếp theo, BCĐ phòng, chống rầy nâu, bệnh VL-LXL và các dịch hại khác trên lúa tỉnh An Giang vừa có công văn đề nghị UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức triển khai thực hiện nghiêm các công văn chỉ đạo của Bộ NN-PTNT và UBND tỉnh. Cần kiên quyết chỉ đạo UBND các xã, phường, thị trấn tổ chức xuống giống ở từng tiểu vùng trong khung lịch thời vụ quy định và theo thông báo lịch xuống giống né rầy cụ thể của ngành nông nghiệp đối với từng tiểu vùng. Phải giữ thời gian cách ly giữa các vụ lúa ít nhất 15 ngày nhằm cắt đứt nguồn bệnh và rầy nâu trên đồng ruộng. Trong cùng tiểu vùng, phải xuống giống tập trung né rầy không quá 7 ngày để hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do rầy nâu, bệnh VL-LXL và các dịch hại khác gây ra. Nguồn : Báo Nông nghiệp
Thị trường Cafe tăng trưởng trở lại - ngày 28/06/2018

Thị trường Cafe tăng trưởng trở lại - ngày 28/06/2018

          Theo ghi nhận từ thị trường, sáng nay giá cà phê tại các tỉnh Tây Nguyên đồng loạt điều chỉnh tăng lên 400 đồng/kg, một số nơi đã quay trở lại mốc giá 36.000 đồng/kg. Theo đó, giá cà phê tại tỉnh Lâm Đồng đạt 35.300 đồng/kg; giá cà phê tại Gia Lai, Đắk Nông ở mức 35.900 đồng/kg, còn tại Đắk Lắk hiện đạt mức cao nhất, 36.000 đồng/kg.                 Tại cảng TP.Hồ Chí Minh, giá cà phê nhân xuất khẩu loại 2, tỷ lệ đen vỡ 5% đang ở mức 1.565 USD/tấn (giá FOB), tăng 19 USD/tấn so với hôm qua, trừ lùi không đổi 140 USD/tấn.              Như vậy sau 2 phiên giao dịch, giá cà phê nội địa đã hồi phục dần sau khi giảm sâu tới 1.000 đồng/kg trong ngày 26/6. Nguyên nhân giá cà phê tăng trở lại là do giá cà phê robusta trên sàn kì hạn tăng trưởng khá. Theo đó, chốt phiên giao dịch đêm qua, giá cà phê kì hạn giao tháng 9/2018 tại thị trường London tăng 19 USD/tấn, đạt 1.705 USD/tấn, tương đương 1,13%. Đáng chú ý, kì hạn giao hàng tháng 7 tăng tới 37 USD/tấn, đạt mức 1.733 USD/tấn.             Trên sàn New York, giá cà phê arabica lại ngược chiều khi giảm từ 0,25 - 0,50 cent/lb, đạt 114,3 cent/lb kì hạn giao hàng tháng 7/2018.     Giá cà phê hôm nay tại một số thị trường chính. Nguồn: giacaphe           Mặc dù giá đã tăng 2 phiên liên tiếp nhưng nông dân vẫn tiếp tục kháng giá khiến nguồn cung robusta từ Việt Nam có dấu hiệu chậm lại. Trong khi Indonesia vẫn đang dành ưu tiên mua cho ngành công nghiệp trong nước với mức giá rất cạnh tranh. Hôm nay là ngày thường có giá lạnh tại Brazil, tuy vậy thông tin dự báo thời tiết Brazil cho hay tuy trời trong nhưng Brazil không bị rét đậm rét hại.
Bán giá rẻ nhưng vì sao tiêu Việt Nam vẫn khó tiêu thụ?

Bán giá rẻ nhưng vì sao tiêu Việt Nam vẫn khó tiêu thụ?

          Trong bối cảnh cung vượt cầu, tiêu đen Việt Nam dù xuất khẩu với số lượng lớn nhưng giá trị thu về lại thua Campuchia, Thái Lan. Trong khi đó, với tiêu trắng, nhiều khách hàng Trung Quốc đã từ chối các hợp đồng của Việt Nam và chuyển sang nguồn cung khác dù giá tiêu Việt Nam rẻ hơn. Đó là thực trạng đáng buồn mà ngành hồ tiêu Việt Nam đang gặp phải, hiện giá đã giảm sâu so với nhiều năm qua. Các chuyên gia cho rằng để cạnh tranh chỉ còn cách duy nhất là nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu cho ngành.             Rẻ vẫn khó bán             Theo báo cáo của Bộ Công Thương, giá hạt tiêu tại thị trường trong nước những ngày đầu tháng 6 tăng tại hầu hết các tỉnh/huyện khảo sát so với cuối tháng 5, trừ tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, xu hướng tăng giá này nhiều khả năng sẽ không bền vững do nguồn cung từ vụ thu hoạch trước vẫn còn nhiều, trong khi nhu cầu không lớn.           Chốt phiên giao dịch ngày 9/6, tại thị trường trong nước, giá hạt tiêu đen giao dịch ở mức thấp nhất là 56.000 đồng/kg tại tỉnh Đồng Nai và mức cao nhất 59.000 đồng/kg tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Với giá tiêu xuất khẩu, tại cảng Tp.HCM, giá hạt tiêu đen xuất khẩu loại 500g/l và 550g/l ổn định ở mức 2.700 USD/tấn và 3.000 USD/tấn; giá hạt tiêu trắng ở mức 4.400 USD/tấn.             So sánh với thị trường quốc tế, Bộ Công Thương cho biết, tại cảng Lampung của Indonesia, giá hạt tiêu đen ngày 8/6 ổn định so với cuối tháng 5, giao dịch ở mức 3.400 USD/tấn. Tại cảng Pkl Pinang, giá hạt tiêu trắng đạt mức 4.800 USD/tấn. Tại cảng Kuching của Malaysia, giá hạt tiêu đen ngày 8/6 giao dịch ở mức 3.245 USD/ tấn; giá hạt tiêu trắng giao dịch ở mức 4.817 USD/tấn.             Giá tiêu trắng của Việt Nam đang được rao bán rẻ hơn của Indonesia và Malaysia, nhưng Bộ Công Thương cho biết nhiều khách hàng Trung Quốc đã từ chối các hợp đồng hạt tiêu trắng của Việt Nam và chuyển sang nguồn cung từ hai quốc gia này. Trong khi đó, về tiêu đen, Việt Nam được xem là cường quốc xuất khẩu số một, dẫn đầu về khối lượng, nhưng giá tiêu Việt Nam vẫn bị trả rẻ hơn các nước khác.            Ông Pascal Billaud, Giám đốc điều hành Central Food Retail Group kiêm Đại sứ châu Á về Chỉ dẫn địa lý của Liên Hiệp quốc, từng so sánh: cùng là tiêu nhưng tiêu đen của Campuchia bán với giá 15 USD/kg, Thái Lan bán 6 USD/kg, còn Việt Nam chỉ bán 5,04 USD/kg. Ông Nguyễn Nam Hải, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, cho biết hiện nay, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đang chọn mua hồ tiêu nhập khẩu từ Brazil do giá hàng có xuất xứ từ nước này rẻ hơn giá trong nước 2.000 – 3.000 đồng/kg. Giá hồ tiêu tại thị trường nội địa Brazil rất rẻ, chỉ 2.000 – 2.500 USD/tấn.             Hàng năm, ngành hồ tiêu Việt Nam xuất khẩu một lượng tiêu chất lượng cao sang các thị trường khó tính với giá cao, nguyên liệu làm nên những sản phẩm này chủ yếu phải nhập từ Campuchia, Indonesia… doanh nghiệp buộc phải nhập từ nước ngoài vì hồ tiêu của các quốc gia này được sản xuất theo hướng hữu cơ, không có tồn dư thuốc bảo vệ thực vật.             Ông Hải cho biết trong những năm trước, quý I thường là thời điểm giao dịch hồ tiêu sôi động, nhưng quý I năm nay, nhiều nhà nhập khẩu thường dựa vào lý do Việt Nam tăng diện tích nên đưa ra những dự báo về sản lượng hồ tiêu Việt Nam năm 2018 quá lớn để trả giá thấp.   Giá tiêu xuất khẩu giảm mạnh từ năm 2017 đến nay           Phải xây chuỗi liên kết             Ngoài ra, trong quý I, giá đi xuống liên tục là do cao điểm vụ thu hoạch, nông dân bán ra ồ ạt khiến nguồn cung trong ngắn hạn tăng đột biến. Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT), việc phát triển diện tích cây hồ tiêu trong những năm qua vượt quá tầm kiểm soát dẫn đến tình trạng bùng phát dịch hại, chất lượng không ổn định và khủng hoảng về lượng tồn dư. Hiện, diện tích hồ tiêu cả nước khoảng 152.668ha, vượt quy hoạch định hướng của Bộ NN&PTNT đến năm 2030hơn 300%. Điều này dẫn tới, nhiều năm qua, doanh nghiệp liên tục bị bên mua ép giá, hàng rào kỹ thuật tại các thị trường lớn của hồ tiêu Việt Nam cũng bị nâng lên.             Bộ NN&PTNT cho rằng tại Việt Nam, người trồng tiêu ồ ạt chạy theo số lượng, ồ ạt mở rộng diện tích trong khi không ý thức được việc nâng cao chất lượng, nâng cao giá trị trong mỗi sản phẩm của mình. Việc mở rộng diện tích vượt quá quy hoạch, chạy theo sản lượng đã khiến người trồng tiêu phải trả giá đắt. Bên cạnh đó, tăng nóng diện tích khiến khối lượng tiêu cung vượt cầu và xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam phần lớn ở dạng thô, chưa đa dạng hóa sản phẩm dẫn đến giá trị gia tăng thấp, tính cạnh tranh chưa cao, chưa xây dựng được thương hiệu, điều kiện bảo quản và chế biến sâu.             Theo Bộ NN&PTNT, thời gian tới, ngành hồ tiêu cần ưu tiên khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất, nhằm kiểm soát diện tích, cắt giảm chi phí sản xuất… cũng như đảm bảo truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Đây cũng là hướng phát triển bền vững mà ngành hồ tiêu cần lưu ý trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch đang gia tăng như hiện nay.   "Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam cần nghiên cứu xây dựng chương trình phát triển chất lượng hồ tiêu Việt Nam cũng như nghiên cứu phát triển thương hiệu hồ tiêu Việt Nam và quảng bá chất lượng hồ tiêu Việt Nam ra thế giới để người tiêu dùng hiểu hơn và có thể tiếp cận với những sản phẩm hồ tiêu Việt Nam", Bộ NN&PTNT yêu cầu.             Cùng với việc đẩy mạnh những mô hình liên kết chuỗi giữa các nhà vườn, doanh nghiệp, cần nâng cao vai trò của Hiệp hội Hồ tiêu trong việc điều tiết thị trường, quảng bá, khẳng định thương hiệu và vị thế của hạt tiêu Việt Nam trên thị trường thế giới. Ngoài ra, ông Pascal Billlaud cho rằng giá hồ tiêu Việt bị trả rẻ vì Việt Nam chưa làm tốt lợi ích của chỉ dẫn địa lý trong việc tăng năng suất cho người trồng. Các lợi ích khác về truy xuất nguồn gốc sản phẩm, nhãn hiệu thông qua sản phẩm có chỉ dẫn địa lý cũng chưa được khai thác triệt để.   Ông Nguyễn Nam Hải - Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt NamTrước thực trạng thị trường trong nước bão hòa, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực để đưa sản phẩm cuối cùng của hồ tiêu vào các siêu thị và nhà hàng nhưng sức tiêu thụ nội địa khó tăng mạnh do ngành công nghiệp thực phẩm, chế biến trong nước chưa được phát triển. Chỉ có một con đường là ngành này cần đi theo hướng sản xuất bền vững, đẩy mạnh chế biến sâu, từ đó không chỉ xuất khẩu hiệu quả mà còn khai thác được thị trường trong nước.Ông Nguyễn Xuân Cường - Bộ trưởng Bộ NN&PTNTNgành nông nghiệp cần tập trung tái cơ cấu ngành hàng hồ tiêu, trước hết cần phải giảm diện tích để nâng cao chất lượng. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh các mô hình liên kết chuỗi. Đây là con đường tất yếu để phát triển bền vững cho ngành hàng này. Nếu không liên kết với nông dân, các doanh nghiệp sẽ khó tồn tại.Ông Willem Van Walt Meijer - Tổng Giám đốc điều hành công ty Nedspice Việt NamNền nông nghiệp Việt Nam chủ yếu là sản xuất nhỏ, lẻ nên việc kiểm soát chất lượng không dễ, nhưng ngành hồ tiêu cần làm cho được vấn đề truy xuất nguồn gốc. Có như vậy, tiêu Việt mới bán được giá cao, uy tín thương hiệu hồ tiêu Việt Nam mới thực sự được nâng lên.   Nguồn - Thời báo kinh doanh
Nông dân trồng lúa phấn khởi vì được mùa được giá vụ Đông Xuân 2018

Nông dân trồng lúa phấn khởi vì được mùa được giá vụ Đông Xuân 2018

Nhu cầu mua gạo tăng ở hầu hết các thị trường cũng như chủng loại gạo đã giúp tăng giá bán lúa của nông dân trong nước, mức có lời khoảng 45%.   Vận chuyển gạo để chuẩn bị xuất khẩu - Ảnh: Trần Mạnh Hiện các doanh nghiệp đang tích cực mua gạo để giao cho các đơn hàng đã ký cũng như chuẩn bị cho các đơn hàng mới. Giá lúa trong nước theo đó cũng tăng lên kỷ lục.   Nông dân vui...   Còn hơn nửa tháng nữa là đến vụ thu hoạch lúa hè thu năm nay nhưng bà Dương Thị Hoa (huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) rất phấn khởi vì giá lúa trên thị trường đang tăng lên từng ngày.    "Đầu vụ đông xuân tôi bán lúa tươi chỉ có 5.200 đồng/kg mà đến cuối vụ đã lên tới 5.700 đồng/kg. Nay giá lúa lên nữa mà không có bán", bà Hoa cho biết.   Với gần 6ha, vụ đông xuân vừa qua gia đình bà Hoa thu hoạch được gần 50 tấn lúa. Với giá bán lúa tươi tại ruộng trung bình 5.500 đồng/kg, bà Hoa thu được trên 250 triệu đồng, trừ chi phí có lời hơn 70 triệu đồng. Đây là mức thu nhập cao nhất trong hơn ba năm qua vì năm nay lúa trúng mùa được giá.   Trong khi đó, ông Nguyễn Minh Hiếu, nông dân ở Thoại Sơn (An Giang), lại tỏ ra tiếc nuối vì lúa vụ đông xuân giá cao nhưng thu nhập không được như ý vì dịch bệnh.    "Tiếc quá chú ơi, mấy năm nay mới bán được giá lúa tươi tại ruộng gần 6.000 đồng/kg như hiện nay mà bị muỗi hành (sâu năn) phá dữ quá. Tính ra vụ đông xuân vừa rồi sản lượng lúa nhà tôi và nhiều gia đình khác trong vùng giảm đến 40-50% năng suất", ông Hiếu cho hay.   Theo ông Nguyễn Văn Bạch, thương lái lúa ở Chợ Mới, vụ đông xuân năm nay người tham gia làm lúa gạo đều có lời vì giá lúa tăng từ đầu vụ đến cuối vụ.    Trong đó nông dân là người có lợi nhuận nhiều nhất, các thương lái cũng kiếm lời nhiều hơn các năm trước.    "Vụ hè thu chuẩn bị thu hoạch. Với đặt hàng của các nhà máy như hiện nay, giá lúa sẽ còn giữ ở mức cao", ông Bạch cho biết.   Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), xuất khẩu gạo năm nay hứa hẹn có nhiều khởi sắc, giá lúa gạo trong nước sẽ tiếp tục giữ ở mức cao trong thời gian tới.     Xuất khẩu gạo 4 tháng đầu năm (2015-2018) - Đồ họa: T.Đạt   Nhiều nước tăng nhập khẩu gạo Việt Nam   Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho biết xuất khẩu gạo của Việt Nam những tháng đầu năm nay tăng mạnh.    Việt Nam liên tiếp trúng thầu cung cấp gạo cho Indonesia, Philippines trong những tháng vừa qua và các hợp đồng từ cuối năm 2017 chuyển sang đã đẩy các doanh nghiệp vào thế chạy đua mua gạo trong nước.    Giá lúa gạo trong nước tăng nhanh và hiện đã cao hơn giá gạo của Thái Lan.   Ông Phạm Thái Bình, giám đốc Công ty cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An (Cần Thơ), cho biết với tình hình cung cầu gạo của thế giới, nhu cầu gạo từ các thị trường nhập khẩu thì có thể khẳng định dư địa cho xuất khẩu gạo của Việt Nam từ nay đến cuối năm là khá lớn.    Hiện hầu hết các thị trường đều có nhu cầu nhập khẩu gạo của Việt Nam mà Việt Nam có thể không đủ khả năng đáp ứng.    Đó là các thị trường tập trung lớn như Philippines, Indonesia, Trung Quốc... đến các thị trường cao cấp hơn như Hàn Quốc, Úc đều đang tăng nhập khẩu gạo từ Việt Nam.   Theo ông Nguyễn Trung Kiên, phó chủ tịch VFA, giá gạo Việt Nam chào bán trên thị trường cũng đã cao hơn so với gạo Thái Lan là 10-15 USD/kg nên giá lúa gạo trong nước khó có khả năng tăng cao nữa.    Tuy nhiên, nhu cầu của các đơn hàng đã ký cũng như tiềm năng ký các đơn hàng mới trong thời gian tới vẫn khá cao.    "Ngoài Philippines gạo thơm đi châu Phi đang rất tốt, thị trường Trung Quốc đang có nhu cầu trở lại khá cao", ông Kiên cho hay và nhận định: dù khó tăng thêm nhưng giá lúa gạo ở trong nước sắp tới có thể vẫn giữ được ở mức cao như hiện nay.   Nông dân có lời khoảng 45%Bộ NN&PTNT cho biết xuất khẩu gạo Việt Nam trong 4 tháng đầu năm đạt khoảng 2,16 triệu tấn với giá trị 1,1 tỉ USD, tăng 21,7% về khối lượng và tăng 37,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.Theo tính toán, chi phí giống, phân bón, nhân công làm lúa đông xuân vừa qua vào khoảng 2.200 đồng/kg, nếu cộng thêm tiền thuê đất 1.200 đồng/kg, giá thành ở mức 3.400 đồng/kg.Giá thành lúa vụ hè thu cao hơn vụ đông xuân, nếu tính lên 4.000 đồng/kg thì với giá bán ra ở mức hiện nay là 5.800 đồng/kg, nông dân vẫn có lời đến 45%. Nguồn : Báo Tuổi Trẻ
Giá cà phê rớt thê thảm trong 4 tháng đầu năm 2018

Giá cà phê rớt thê thảm trong 4 tháng đầu năm 2018

Giá xuất khẩu cà phê bình quân 4 tháng đầu năm giảm gần 15% so cùng kỳ. Riêng hơn 1 tháng nay, cà phê liên tục rớt giá thê thảm. Giá cà phê xuất tháng 4 giảm 23% so với tháng 3.   Chỉ có đầu tư chế biến thì đầu ra hạt cà phê Việt Nam mới ổn định được. Ảnh: Đào Ngọc Thạch Đến 16.5, giá cà phê nhân xô ở Tây nguyên xuống mức 35.000 đồng/kg. Mức giá này được coi là thấp nhất trong vòng 12 tháng qua. Giá cà phê giảm đang theo đà giá giảm của thế giới. Theo giới xuất khẩu cà phê, có hai lý do khiến giá cà phê thế giới đang giảm. Thứ nhất, do đồng reais của Brazil (thủ phủ cà phê thế giới) tiếp tục suy yếu. Thứ hai, chỉ số đồng USD tăng cao đẩy giá vàng và giá dầu thô tăng theo, khiến nhà đầu tư trên sàn giao dịch không còn mặn mà với cà phê nữa, đổ đầu tư vào hai mặt hàng kia. Thứ nữa, nguồn cung cà phê của Brazil năm nay được đánh giá là được mùa mức kỷ lục, xuất khẩu cà phê của Brazil, Colombia, Uganda vẫn tiếp tục tăng khiến giá cà phê thế giới giảm liên tục. Đó là câu chuyện của thế giới, còn tại Việt Nam, lượng cà phê tồn kho khá cao, trong khi đã bước vào niên vụ mới và được dự kiến sẽ khó giảm tồn kho khi nhiều nhà nông vẫn tuân theo lý thuyết giá thấp giữ lại không bán.   Có một nghịch lý với ngành cà phê được đề cập đến lâu nay là tỷ lệ xuất khẩu thô quá cao. 90% cà phê đang được xuất khẩu là cà phê thô, 10% còn lại có chế biến sâu nhưng chủ yếu bán trong nước. Số liệu của năm 2017cho thấy, tuy là cường quốc sản xuất cà phê của thế giới, chỉ đứng sau Brazil, song trung bình mỗi năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 60.000 tấn cà phê đã qua chế biến từ các quốc gia mua cà phê thô của Việt Nam số lượng lớn. Một mong muốn hay giả thiết được các nhà xuất khẩu cà phê đặt ra là nếu nâng tỷ lệ chế biến sâu lên, giá cà phê Việt Nam sẽ ổn định hơn, nếu không nói là có thể tham gia vào việc “vẽ lại bản đồ cà phê thế giới” nếu nắm được mảng rang xay chế biến.   Theo Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam, hiện cả nước có khoảng 150 doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nhưng phần lớn xuất thô và chất lượng không ổn định. Đó là điểm khó cho cà phê Việt Nam ra thế giới. Việc xuất thô, không xây dựng được thương hiệu khiến giá trị thương mại xuất khẩu cà phê thấp là đề tài không mới. Mỗi năm thế giới chi khoảng 500 tỉ USD cho tiêu dùng cà phê, doanh thu xuất khẩu từ cà phê của Việt Nam đạt khoảng 3,4 tỉ USD, theo Bộ NN-PTNT là con số quá khiêm tốn trong khi sản lượng của thế giới đạt 9 triệu tấn, riêng Việt Nam đạt 1,5 triệu tấn. Nguồn : Báo Tuổi Trẻ